Bệnh án điển hình ở Trung Quốc – Bệnh truyền nhiễm
LỴ TRỰC KHUẨN CẤP (Đi lỵ, mót rặn, phân lẫn lộn trắng đỏ)
Biện chứng đông y: Thấp nhiệt nội ẩm
Pháp điều trị: Thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, điều khí, bổ huyết
Phương thuốc: Thang bào đơn, Đương quy thuọc dược gia giảm
Thành phần:
Thang bào đơn: Mễ xác 10g, Mật ong 31g. Mễ xác sắc lấy nước, rót mật ong vào.Mỗi ngày uống một thang, chia làm 2 lần sáng, chiều.
Đương quy thược dược thang gia giảm: Đương quy 60g, Bạch thược 60g, Lai phục tử 3g, Quảng mộc hương 3g, Hoàng liên 9g, Địa du 12g, Chỉ xác 6g, Tân lang 6g, Hoạt thạch 10g, Cam thảo 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang vào buổi tối.
Hiệu quả lâm sàng:
Đông y thường chia bệnh lỵ thành: thấp nhiệt lỵ. hưu tức lỵ (cửu lỵ), hư hàn lỵ. Dùng Thang bào đơn để trị tiêu (ngọn), Đương quy thuọc dược gia giảm để trị bản (gốc), có thể có tác dụng tốt.
Phép điều trị này đối với người già, phụ nhi, trẻ em đều thích hợp, đã sử dụng trên lâm sàng mấy chục năm, chữa cho rất nhiều ca, kết quả đều rất tốt.
Bạch XX, nam, 30 tuổi, nông dân. Đột nhiên sốt, lạnh, tiêu lỏng, hôm đó đi lỵ ra mủ máu, mót rặn, vào nhà tiêu liên tục, vào viện cấp cứu.
Kiểm tra thân nhiệt 39độc C, huyết áp 120/70, bạch cầu 13.600/mm3 trong đó trung tính 80%, Lympo 20%. Thử phân thấy nhiều tế bào mủ và hồng cầu. Chẩn đoán lỵ khuẩn cấp.
Cho dùng Cloromycetin, Tetracyclin, thuốc lỵ đặc hiệu, phối hợp truyền dịch, nhưng điều trị đến 4 ngày mà hiệu quả không rõ rệt, chuyển sang điều trị đông y.
Bệnh nhân đau bụng, mót rặn, đi lỵ phân lẫn lộn trắng đỏ. Đó là thấp nhiệt tích trệ ở ruột, khí huyết bị tắc, chức năng dẫn truyền rối loạn, sinh đau bụng mót rặn, thấp nhiệt nung nấu, tổn thương khí huyết đến nỗi thành lỵ. Phân đỏ trắng lẫn lộn, hậu môn nóng rát, tiểu ít mà đỏ là do thấp nhiệt hạ trú. Rêu lưỡi vàng bẩn, mạch hoạt sác cũng là dấu hiệu của thấp nhiệt.
Dùng phương pháp thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, điều khí, bổ huyết, cho uống hai bài trên. Bệnh nhân uống hai ngày, mọi chứng đều hết, hoàn toàn khoẻ mạnh, ra viện,
Nhận xét:
Mễ xác chất bình, vào các kinh Phế, Đại trường và Thận, trị các chứng ho lâu, tả lỵ, di tinh, đau tim, đau bụng, gân cốt. Vì có tính cố sáp, lúc dùng nó nên thêm các vị khác, tránh làm ngăn trở vị, gây trở ngại ăn uống. Mật ong vị ngọt, tính bình vào các kinh Phế, Vị, Đại trường, có tác dụng hoạt trường thông tiện, nhuận phế, giảm ho, giảm đau. Tính cố sáp của Mễ xác là cầm đại tiện lại ngay, đồng thời giảm đau. Mật ong hoạt trường, thông tiện. Mật ong trị lỵ rất tốt (diệt trự khuẩn lỵ và trực cầu sinh mủ), tác dụng nhanh, hết hẳn đau, mót rặn. Phối hợp với Đương quy thược dược thang để trị gốc, hiệu quả càng rõ rệt.
(Theo Bs Diễm Khang Thuận, bệnh viện đông y tỉnh Hồ Bắc)